THỰC TRẠNG VỀ CÁC KIỂU ĐỌC HIỂU THƯỜNG GẶP
Kiểu 1: Biết hán tự, biết từ vựng và biết cả ngữ pháp nhưng vẫn KHÔNG dịch được câu trọn vẹn, đọc vẫn không hiểu gì hay có hiểu thì hiểu mơ màng. Đây là kiểu hay gặp nhất phải không các bạn đọc?
Kiểu 2: Dịch xong hiểu thì hiểu trong đầu đấy nhưng bảo viết ra, nói ra thành tiếng Việt thì ứ ự.
Kiểu 3: Đọc mãi không hiểu, nhìn thấy đọc hiểu là chạy.
Kiểu 4: Dịch câu rất mượt mà nhưng tác giả nói một đằng mình dịch một nơi. ( Các bạn giỏi văn đây mà :)
Kiểu 5: Đọc thì hiểu nhưng dịch ra không mượt mà lắm.
Bạn thuộc kiểu nào trong 5 kiểu này ạ? Nào hãy cùng mình cmt xuống phần bình luận hoặc lấy giấy bút ra ghi lại để nhìn lại sau khi bạn đã đọc toàn bài viết của mình nhé. Và nếu bạn là một trong những kiểu hay gặp bên trên thì đây là bài đọc dành cho bạn, hãy đọc đến cuối nhé!
CÁC LỖI RẤT SAI TRONG ĐỌC HIỂU MÀ BẠN CỨ NGỠ MÌNH ĐÚNG
KHÔNG BIẾT DỊCH CÂU TỪ ĐÂU NÊN DỊCH TỪ [が、は、も」 XONG DỊCH NGƯỢC LÊN.
Đây có lẽ là hiểu lầm mà nhiều bạn mắc phải nhất. Vì ngữ pháp tiếng Nhật ngược với tiếng Việt nên chúng ta bị nhầm chỉ cần bắt chủ ngữ tại trợ từ [が、は、も] dịch trước nó sau đó dịch từ đuôi lên. Tất nhiên lý thuyết này cũng không hẳn sai, chúng ta luôn phải dịch chủ ngữ rồi mới đến vị ngữ. Nhưng trong câu không chỉ có 1 chủ ngữ và vị ngữ, trong câu có rất nhiều chủ và vị ngữ khác nhau, đặc biệt tiếng Nhật lại rất hay khuyết chủ ngữ nữa nên dẫn đến nhiều cái sai. Các bạn thử ví dụ bên dưới xem lý thuyết mà các bạn đang áp dụng còn đúng không nhé!
例1: 何よりも料理を好む、そのお母さんが作ったケーキを食べた。 Ở ví dụ này nếu áp đúng lý thuyết bên trên vào thì sẽ dịch câu thành”” thích nấu ăn hơn bất cứ thứ gì, người mẹ đó đã ăn cái bánh mà đã làm” hihi hơi ba chấm phải không ạ? Câu dịch đúng phải là: Tôi đã ăn cái bánh của người mẹ-người mà thích nấu ăn hơn bất cứ thứ gì đã làm. Thế nên không phải là cứ ngữ pháp tiếng Nhật ngược là mình đi ngược là đúng nha.
CỐ TÌNH BỎ QUA TRỢ TỪ.
Chúng ta khi càng học lên cao lại càng không để ý đến trợ từ nữa. Nhưng trợ từ được ví giống như cái khớp nối giữa các bộ phận câu lại với nhau tạo thành câu. Nếu sai trợ từ có thể sẽ dịch sai hoàn toàn ý mà tác giả muốn nói đến hoặc khó hiểu câu. Đây cũng là một trong những lỗi mà dẫn bạn đến kiểu đọc hiểu số 5 mà mình nói ở trên.
例 2:その二人とは食事をしました。Nếu nhìn nhanh sẽ có rất nhiều bạn dịch :” Hai người đó dùng bữa với nhau”” trong khi ở câu tác giả sử dụng trợ từ [とは] tức là: “ Tôi đã dùng bữa với hai người đó. “
例3:敬語の使い方が間違っているのでも、言い方が失礼なのでもない. Câu này cũng giống câu trên có rất nhiều bạn dịch là” Cho dẫu là cách sử dụng kính ngữ có sai thì cách nói cũng không thất lễ”. Thoáng qua bạn thấy câu này thuận đúng không? Cảm giác rất thuyết phục nhưng thực ra câu dịch này lại bị sai đó bạn. Cái sai ở đây là bạn bị sai ý nghĩa của trợ từ [でも]. Khi nhìn trợ từ này mặc nhiên mọi người dịch là “cho dẫu, thế nhưng”. Nhưng thực ra đó chỉ là một từ tiếng Việt để dịch mà thôi bản chất là mang đằng trước của nó ra để làm ví dụ-> nhìn kĩ chút có lẽ bạn sẽ nhận ra ~のでも ~のでもtức muốn lôi việc sử dụng kính ngữ sai và việc cách nói thất lễ ra làm ví dụ và cả 2 việc này đều không có. Vậy nên phải dịch lại câu là” Cho dẫu cách sử dụng kính ngữ sai hay cho dẫu cách nói thất lễ thì đều không có”. Suôn hơn là” cách sử dụng kính ngữ không sai mà cách nói cũng không thất lễ”.
Đây mới chỉ là một ví dụ rất nhỏ thôi ạ. Vậy đối với câu dài hơn thì việc xác định kỹ ý nghĩa của trợ từ là cần thiết phải không ạ?
NGẮT CÂU TẠI DẤU PHẨY.
Người Việt mình hay đọc và ngắt câu tại dấu phẩy lắm. Nhưng dấu phảy thực ra nó không nghĩa ngắt câu mà chỉ là điểm dừng khi đọc để dễ đọc mà thôi ( Theo định nghĩa của https:// dictionary.goo. ne.jp/: 読点:文の意味の切れ目を示したり、文を読みやすくしたりするために、文中に施す記号). Nếu như ở ví dụ 1 mình ngắt câu tại dấu phẩy là sai rồi đúng không? Vì cả cụm [何よりも料理を好む] đang bổ nghĩa hết cho người mẹ mà.
THÊM VÀ BỚT TỪ TRONG CÂU ĐỂ CÂU SUÔN HƠN.
Có lẽ vì không biết dịch từ đâu nên nhiều lúc dịch các bạn thấy dịch không được mượt lắm và theo phản xạ tự nhiên bạn vô tình thêm hay bớt từ trong câu đi để cho mượt câu hơn. Nhưng không ngờ là hành động vô tình đó làm cho câu văn của bạn trở nên lủng củng, làm cho câu lê thê hoặc sai nghĩa tác giả muốn nói. (Chỉ có duy nhất một thứ phải thêm khi đọc dịch đó là chủ ngữ bị khuyết trong câu vì trong tiếng Nhật rất khuyết chủ ngữ). Và đôi khi bạn bỏ bớt mà lỡ bỏ 1 trợ từ thì cũng có thể làm câu thay đổi hoàn toàn. Vậy nên muốn dịch hay thì đầu tiên mình phải dịch đúng trước.
CHÚ Ý VỀ ĐỐI TƯỢNG CHỦ NGỮ BỊ KHUYẾT TRONG ĐỌC HIỂU
Trong tiếng Nhật, việc bị khuyết đối đượng chủ ngữ thực hiện hành động chắc không còn là xa lạ với các bạn. Nhưng ngoài đối tượng chủ ngữ thực hiện hành động ra thì thực tế chủ ngữ còn chỉ nhiều đối tượng khác nữa. Khi đọc dịch đôi khi chúng ta lại không để ý đến đối tượng này mà không thêm vào câu nên làm cho câu văn khó hiểu và dẫn đến mình chỉ hiểu mà để dịch viết thành đoạn văn thì không thể. Vậy nên, khi dịch bài chúng ta cần chú ý về đối tượng chủ ngữ này.
Khi thấy vị ngữ thì buộc phải thấy chủ ngữ, nếu khuyết phải tự thêm vào
– Khi thấy động từ buộc phải thấy người thực hiện hành động, nếu khuyết tự thêm vào.
Ví dụ:母が作ったケーキを食べました。 Câu này có 2 động từ là 作った và 食べました nhưng chỉ có 1 đối tượng là 母 nên rõ ràng mẹ là người làm hành động 作った vậy đối tượng làm hành động ăn của mình bị khuyết, nên dịch câu chúng ta cần phải tự thêm đối tượng này vào.
– Khi thấy câu kết thúc bởi danh từ thì phải thêm đối tượng chủ ngữ ( đối tượng này có thể làこれ、それ ) vào câu. Vì danh từ đứng cuối câu cũng là một vị ngữ.
Ví dụ: よく言われることです。 Câu này có lẽ không còn xa lạ với các bạn đọc hiểu rồi. nhưng mọi người hay dịch là: “ cái việc thường hay được nói đến”. Bạn thử đọc kĩ xem câu này rõ ràng tiếng Việt hơi kì đúng không ạ? Cái việc nào hay được nói đến?. Câu này đang khuyết một đối tượng chủ ngữ mình phải tự thêm vào, và dựa vào bài bạn có thể thêm これ、それ vào câu thì câu văn dịch của mình sẽ thuận ngay. “ Đây là cái việc hay được nói đến nhiều” nghe thuận hơn chưa ạ?
Để hiểu rõ hơn bài các bạn đừng bỏ qua điều này nhé.
ĐỌC THẬT NHIỀU
Nghe có vẻ rất vô lý đúng không? Đọc nhiều là tốt nhưng các bạn phải hiểu rõ mình cần đọc nhiều lúc nào nhé. Như mình thấy thì gần như các bạn chỉ mù quáng luyện đọc thật nhiều bài mà không hề học đọc. Cứ chạy theo đọc thật nhiều đề, nhưng khi đi thi gặp lại chỉ ấn tượng là” a bài này đọc rồi” và cố gắng nhớ nhưng khi bảo viết ra bản dịch hoặc viết tóm tắt bài thì lại không thể làm. Đấy thế nên khi chưa thật sự HỌC đọc mà chỉ chạy theo số lượng thì cái bạn biết bạn sẽ biết còn cái bạn sai bạn cũng vẫn sai mãi. Thế nên, riêng đọc hiểu bạn phải học lấy chất trước rồi mới lấy lượng sau, có nhiều lượng mà lượng không chất thì cũng như không.
Vậy DỊCH CÂU TỪ ĐÂU?
Vậy làm thế nào để khắc phục những lỗi sai ở bên trên và luyện đọc hiểu đúng cấu trúc câu tiếng Nhật cùng mình vào phần quan trọng nhất trong bài chia sẻ này nhé!
CHÌA KHOÁ CỦA ĐỌC DỊCH – PHƯƠNG PHÁP PHÂN TÍCH CÂU – DỊCH CÂU TỪ ĐÂU
DỊCH CÂU ĐÚNG LÀ DỊCH ĐÚNG CẤU TRÚC CÂU(Cái này có lẽ là chân lý ). Vậy để biết dịch câu từ đâu thì ta đơn giản chỉ cần xác định cấu trúc câu là xong phải không ạ. Đến đây có rất nhiều bạn cho rằng cấu trúc câu là: chủ ngữ chính, vị ngữ chính và ngữ pháp của câu. Cái này cũng đúng luôn nhưng lại khó xác định vào câu thực tế vì trong câu có nhiều chủ ngữ và vị ngữ lắm phải không ạ.
Nên các bạn có thể đưa về thật đơn giản như sau: 文章 = 文の要素+修飾部分.( đây là cách thành lập nên câu mình tham khảo trong tài liệu tiếng Nhật bạn có thể gõ cụm từ này trên gg để tìm đọc thêm). Dịch là:
CÂU = THÀNH PHẦN BỔ NGHĨA + THÀNH PHẦN KHÔNG BỔ NGHĨA. (đây cũng là chân lý)
Mà thành phần bổ nghĩa thì chỉ có tác dụng làm rõ nghĩa cho câu. ( Cái này trong bất kì ngôn ngữ nào cũng như vậy). Nói cách khác, bổ nghĩa là bổ sung ý nghĩa cho một thành phần của câu. Vậy nên, thành phần bổ nghĩa không làm thay đổi cấu trúc câu và không làm ảnh hưởng đến thứ tự dịch câu.
Thành phần làm thay đổi và ảnh hưởng trực tiếp tới cấu trúc câu là thành phần không bổ nghĩa. Hay tóm lại:
CẤU TRÚC CÂU = THÀNH PHẦN KHÔNG BỔ NGHĨA.
DỊCH CÂU ĐÚNG CẤU TRÚC CÂU LÀ DỊCH CÂU ĐÚNG THEO THÀNH PHẦN KHÔNG BỔ NGHĨA TRONG CÂU THEO THỨ TỪ ĐẦU ĐẾN CUỐI.
例4:あなたが作ってくれたカレーは本当に美味しかったです.
Phân tích câu: カレー: Chủ ngữ, 美味しかった: Vị ngữ, và cụm あなたが作ってくれた: bổ nghĩa cho カレー, 本当に: bổ nghĩa cho 美味しかった.
->CẤU TRÚC CÂU của mình thực ra chỉ là: ~カレーは~美味しかったです. Dịch là: ” Món cà ri mà bạn làm cho tôi thật sự rất ngon.”
CÔNG THỨC trong ĐỌC DỊCH
Mình sẽ tóm gọn lại nội dung thành công thức để các bạn có thể dễ dàng áp dụng và dễ hiểu hơn.
Cấu trúc câu Tiếng Nhật: (.) C1(..) C2(…) C3. …. ( vì tiếng Nhật bổ nghĩa luôn đứng trước)
Ghi chú: C1 là cụm ko bổ nghĩa số 1, C2 là cụm không bổ nghĩa số 2, C3 là cụm không bổ nghĩa số 3,…(.) cụm bổ nghĩa số 1, (..) cụm bổ nghĩa số 2, (…) cụm bổ nghĩa số 3,…. Các cụm này được cho trong ngoặc vì nó có thể có hoặc không.
Cấu trúc câu Tiếng Việt: C1(.) C2(..) C3(…)…..( Vì tiếng Việt thành phần bổ nghĩa luôn luôn đứng đằng sau)
Vậy là khi dịch câu mình chỉ cần tiến hành dịch theo thành phần không bổ nghĩa C1, C2, C3…. theo đúng thứ tự từ đầu đến cuối và lần lượt đính kèm bổ nghĩa của chúng vào là được. Dễ mà phải không các bạn.
例5:“ 時間に追われる毎日を何よりも嫌っていた, その主人が出張前に私に 残してくれた片身は、長く愛用していた古い型の腕時計であった”.
Phân tích câu: Thành phần bổ nghĩa( .)時間に追われる毎日を何よりも嫌っていた, その主人が出張前に私に 残してくれた. Bổ nghĩa cho cái kỉ vật片身(C1). Thành phần (..) 長く愛用していた. Cụm này bổ nghĩa cho cái đồng đồ đeo tay kiểu cũ~の腕時計であった(C2).
CẤU TRÚC CÂU~片身は~古い型の腕時計であった.
-> Câu của mình đơn giản chỉ là: Cái kỉ vật (gì gì đó) ~là cái đồng hồ đeo tay~( làm sao đó). Ghép bổ nghĩa lần lượt vào thì mình sẽ dịch được câu : Cái kỉ vật mà ông chồng cái người ghét mỗi ngày bị thời gian truy đuổi hơn bất cứ thứ gì trước khi đi công tác đã để lại cho tôi là cái đồng hồ đeo tay kiểu cũ mà ổng đã yêu thích sử dụng trong thời gian dài.
Đến đây có lẽ các bạn đã hiểu được thứ dự dịch câu từ chỗ nào và tại sao lại phải dịch từ đó rồi chứ ạ. Cùng với mình đi vào các bước để luyện tập nhé!.
CÁC BƯỚC LUYỆN DỊCH BẰNG PHƯƠNG PHÁP PHÂN TÍCH CÂU
Để dễ luyện tập dịch câu từ đâu hơn bạn có thể chia nhỏ ra luyện theo từng bước như sau:
B1: Đọc, xác định và phân tích ý nghĩa trợ từ.
Đây là bước đơn giản nhưng lại rất quan trọng vì nó ảnh hưởng rất nhiều đến dịch câu. Nếu bạn xác định rõ được ý nghĩa của từng trợ từ bạn sẽ biết rõ cụm nào đi với cụm nào→ dễ xác định thành phần không bổ nghĩa trong câu.
B2: Xác định vế câu, ngữ pháp trong câu.
Hiểu một cách đơn giản là xem câu này có ngữ pháp ngắt câu không, nối câu hay không vì khi nối hay ngắt câu thì có những từ đệm đi kèm ví dụ như: 〜だけではなく đây là một ngữ pháp nối câu. Tức là khi dịch nó mình cần xác định 2 vế ở đâu thể thành cụm ~không chỉ~ mà còn……
B3: Phân tích câu- xác định thành phần bổ nghĩa, không bổ nghĩa trong câu và gạch chân thành phần không bổ nghĩa để làm nổi thứ tự dịch câu.
Xác định cụm C1, C2, C3,… trong câu bằng cách gạch bỏ tất cả thành phần bổ nghĩa nhưng phải theo cụm( tức vị ngữ bổ nghĩa thì chủ ngữ cũng bổ nghĩa). Nếu câu có thành phần bổ nghĩa (.),(..)quá dài thì bạn có thể phân tích câu này tượng tự theo thứ tự cụm C1’, C2’,… nhé bạn.
Chú ý quan trọng: Thành phần bổ nghĩa trong câu bạn đã học từ N5 rồi, mình tổng kết lại để các bạn cùng ôn tập nhé. Cụm bổ nghĩa trong câu gồm: CỤM THỂ THÔNG THƯỜNG, CỤM TRƯỚC TRỢ TỪ 「と」 NỘI DUNG, TRƯỚC TRỢ TỪ 「の」、TRƯỚC MẪU NGỮ PHÁP BỔ NGHĨA NHƯ 〜ような、〜ように、〜として。
B4: Dịch câu theo đúng thứ tự dịch câu.
Dịch đúng câu theo thứ tự dịch câu C1->C2->C3,… theo thứ tự từ đầu đến cuối có bổ nghĩa thì đính bổ nghĩa vào câu. Tuyệt đối không thêm hay bớt từ trong câu nhé bạn.
Nói thì dài dòng vậy chứ thử vào ví dụ cụ thế nhé!
例6: 大学を出てから働き始めた多くの若い人が、大学時代にもっと勉強をしておけばよかったと後悔したり残念がったりしている姿をよく見かけます.
B1: Phân tích trợ từ:
– を là của cụm大学を出てから
– が chủ ngữ và vị ngữ, chủ ngữ là 多くの若い人, vị ngữ là 後悔したり残念がったりしている
– に thời gian
– を là của cụm 姿をよく見かけます.
– と: nội dung của động từ hối hận, luyến tiếc.
B2: Xác định vế câu, ngữ pháp trong câu.
~しておけば: nếu mà ~ thì. Nhưng vế 2 của nó là cụm よかった rồi nè và tất cả điều bổ nghĩa cho động từ phía sau rồi.
B3: Phân tích câu
[大学を出てから働き始めた] là cụm thể thông thường bổ nghĩa cho 多くの若い人が nhưng 多くの若い人が này lại là chủ ngữ làm hành động 後悔したり残念がったりしている vậy nên tất cả từ đầu đều là thành phần cho [姿], mà [姿] đi kèm 1 cụm 姿をよく見かけます. Vậy nên câu khuyết mất chủ ngữ làm hành động 見かけます.
-> THÀNH PHẦN KHÔNG BỔ NGHĨA, CẤU TRÚC CÂU là: 私は〜姿をよく見かけます.
B4: Dịch câu theo thứ tự dịch .
Áp thứ tự dịch vào ta có câu:
Tôi thường hay bắt gặp những bóng dáng của nhiều người trẻ, sau khi tốt nghiệp bắt đầu đi làm họ hối hận, luyến tiếc rằng: Nếu ở thời đại học, học chăm hơn một chút thì đã tốt rồi.
Tới đây các bạn đã hiểu hết về thứ tự dịch câu chưa ạ? Mình gọi phương pháp đọc dịch này là PHÂN TÍCH CÂU, phương pháp này giúp bạn hiểu rõ từng cụm từ có trong câu và cấu trúc câu. Giúp cho bạn lý giải được tại sao phải dịch câu từ chỗ đó mà không phải là chỗ nào khác và cũng giúp các bạn tránh được những lỗi sai ở phía trên mà từ trước đến nay mình vẫn bị sai. Mình rất vui nếu bài viết này có thể thể giúp ích cho các bạn đọc 1 phần nào đó.
Đi kèm với bài viết này là tài liệu để luyện tập phương pháp phân tích câu và luyện đọc hiểu mà mình đã biên soạn lại gửi tặng đến các bạn. Tài liệu bao gồm:
– Bản pdf của bài biết về lý thuyết dịch câu này, bản phân màu để dễ nhìn.
– 50 câu luyện tập phương pháp phân tích câu từ dễ đến khó, kèm phần hướng dẫn chi tiết phân tích các thành câu và cấu trúc câu.
– 30 bài đọc hay kèm bản dịch tham khảo.
Link video về chuỗi luyện tập đọc dịch tiếng Nhật:
Đây là bộ tài liệu mình đã tâm huyết và dày công biên soạn, rất hy vọng khi các bạn sao chép bài viết này các xin hãy trích nguồn ủng hộ mình.
Chúc các bạn học tập thật tốt!
Hinxu